Những
năm gần đây, ngành giáo dục rất quan tâm đến việc ứng dụng CNTT vào hoạt
động giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động dạy học đã dần thay
đổi phương pháp giảng dạy học tập từ truyền thống sang phương pháp giảng
dạy tích cực, giúp người dạy và người học phát huy được khả năng tư
duy, sáng tạo, sự chủ động và đạt hiệu quả. Từ mô hình lớp học tập trung
đã dần chuyển sang các mô hình dạy học trực tuyến, sử dụng công nghệ
thông tin và truyền thông đễ hỗ trợ các hoạt động giảng dạy, học tập.
Qua đó, người học có thể tiếp cận tri thức mọi nơi, mọi lúc, có thể chủ
động trong việc học tập và ứng dụng kiến thực vào thực tiễn. Sự bùng nổ
về công nghệ giáo dục đã, đang và sẽ tạo ra những phương thức giáo dục
phi truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền giáo dục mang
tính chuyển đổi sâu sắc vì con người.
Ngày
03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 749/QĐ-TTg về việc phê
duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030”. Theo đó, Giáo dục là lĩnh vực được ưu tiên chuyển đổi số thứ 2
sau lĩnh vực Y tế. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của giáo dục và
chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng,
không chỉ đối với ngành mà còn tác động rất lớn đối với đất nước
Chuyển đổi số là gì?
Có
nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số (Digital transformation)
nhưng có thể nói chung đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế
giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Theo đó, mọi người
tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không
gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra
rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghệ 4.0 (CMCN
4.0) hiện nay.
Trên
thế giới nhiều quốc gia đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về
chuyển đổi số như tại Anh, Úc, Đan Mạch, Estonia… Nội dung chuyển đổi
số rất rộng và đa dạng nhưng có chung một số nội dung chính gồm chính
phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở), kinh tế số (như tài
chính số, thương mại điện tử), xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa)
và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm (như nông nghiệp, du lịch,
điện lực, giao thông).
Chuyển đổi số tác động đến giáo dục như thế nào?
Trong
thời gian vừa qua, khi dịch Covid-19 xảy ra trên toàn cầu đã ảnh hưởng
đến mọi lĩnh vực của cuộc sống, giáo dục đào tạo không là ngoại lệ.
Tại
Việt Nam, nhiều cơ sở giáo dục và các trường học áp dụng giảng dạy
online trong suốt thời gian diễn ra dịch Covid-19 và thời gian sau đó,
song phương pháp trực tuyến vẫn gặp thách thức về công nghệ, cách đánh
giá năng lực người học...
Bên
cạnh một số trường đã áp dụng công nghệ vào giảng dạy trực tuyến từ
nhiều năm trước đây, vẫn còn khá nhiều trường chưa quen với hình thức
đào tạo này, hoặc cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin chưa đảm bảo để thực
hiện giảng dạy trực tuyến một cách có hiệu quả, và phát huy được năng
lực của người học.
Tuy
nhiên, với xu thế phát triển công nghệ hiện nay, việc tiếp cận công nghệ
vào giảng dạy và học tập trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Sự phát
triển của các ứng dụng trên nền tảng di động, mạng xã hội giúp người
dùng dễ dàng tương tác mọi lúc mọi nơi, đã tạo điều kiện cho giáo dục
trực tuyến phát triển lên bậc cao hơn.
Nền tảng cơ bản của chuyển đổi số trong
giáo dục dựa vào cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu số
chuyên ngành, đường lối, chủ trương chính sách và đội ngũ lãnh đạo, cán
bộ viên chức, giảng viên, giáo viên, người học …
Cuộc
cách mạng công nghệ 4.0 được đặc trưng bởi 4 nhóm công nghệ cốt lõi là:
(i) Công nghệ số: AI, Big data, IoT, Blockchain, Cloud, Robot tự hành,
Mô phỏng, Tính toán lượng tử; (ii) Vật lý và vật liệu mới: Nano, In 3D,
Quang điện, Xe tự lái, Xe điện, Thiết bị bay; (iii) Sinh học: Tế bào
gốc, Chip sinh học, Cảm biến sinh học, Công nghệ thần kinh, Y học cá
thể, Chẩn đoán hình ảnh y sinh học và (iv) Năng lượng và môi trường: Vệ
tinh nhỏ, Công nghệ turbin gió, Lưới điện thông minh, Công nghệ ắc-qui,
Năng lượng đại dương.
Sự kết
hợp giữa CMCN 4.0 với dữ liệu số và các công nghệ khác nhau được đánh
giá sẽ là sự phát triển đột phá của chuyển đổi số góp phần thay đổi sâu
sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế …
Chuyển đổi số trong ngành giáo dục bao gồm những hoạt động gì?
Chuyển
đổi số trong ngành giáo dục, nghĩa là việc áp dụng công nghệ, cũng dựa
vào mục đích, cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục và được ứng dụng dưới 3
hình thức chính: Ứng dụng công nghệ trong lớp học: Cơ sở vật chất lớp học, công cụ giảng dạy.
Ứng dụng công nghệ trong phương pháp dạy
học: Áp dụng các xu hướng giáo dục công nghệ như Lớp học thông minh,
Game hóa (Gamification), Lập trình,… vào giảng dạy.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý: Công cụ quản lý và vận hành
Chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo tập
trung vào hai nội dung chủ đạo là chuyển đổi số trong quản lý giáo dục
và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học
(NCKH). Trong quản lý giáo dục bao gồm số hóa thông tin quản lý, tạo ra
những hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên thông, triển khai các dịch
vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân
tích dữ liệu, ..) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định
trong ngành GDĐT một cách nhanh chóng, chính xác. Trong dạy, học, kiểm
tra, đánh giá gồm số hóa học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng
điện tử, kho bài giảng e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư
viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến,
xây dựng các trường đại học ảo (cyber university).
Những lợi ích của công nghệ đối với giáo dục
Nâng
cao chất lượng giáo dục: Ngày nay, các thành tựu công nghệ như IoT
(Internet Of Things - Internet vạn vật) giúp tăng cường quản lý, giám
sát trong các cơ sở giáo dục, theo dõi hành vi của người học; Công nghệ
Big data (dữ liệu lớn) giúp phân tích hành vi học tập của người học để
có hỗ trợ, tư vấn phù hợp; hay Blockchain giúp xây dựng hệ thống quản lý
thông tin và hồ sơ giáo dục của người học, cho phép hợp nhất, quản lý
và chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử học tập,
bảng điểm của người học để đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất,
minh bạch.
Tăng
tính tương tác, tính thực hành - ứng dụng: Ứng dụng thực tế ảo (Virtual
Reality - VR), thực tế tăng cường (Augmented Reality - AR) trong giáo
dục để tạo dựng các phòng thí nghiệm ảo, mô hình thực tế ảo có khả năng
tương tác với người dùng, hay các cuốn sách AR, phần mềm Blippar dạy
khoa học vũ trụ,… giúp cho người học có những trải nghiệm đa giác quan,
dễ hiểu, dễ nhớ và gây tò mò, hứng thú cho người học, đồng thời tăng
tính tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học.
Tạo
không gian và thời gian học linh động, thúc đẩy giáo dục mở - bình đẳng –
cá thể hóa: Thời gian gần đây, khóa học trực tuyến đại chúng mở (MOOC)
bùng nổ với các tên tuổi lớn trên thế giới như: Udacity, Coursera, edX,
Udemy, FutureLearn, tạo điều kiện cho người học tiếp thu kiến thức một
cách linh động và thuận tiện mọi lúc, mọi nơi. Điều này thúc đẩy một nền
giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, thu hẹp mọi
không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian, từ đó phát triển nhanh về
kiến thức, nhận thức và tư duy.
Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học
liệu mở, giúp người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở
đâu và trong khoảng thời gian nào. Tài nguyên học liệu mở là một xu
hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục hiện đại.
Giảm chi phí đào tạo: Với sự phát triển
của Internet, các mô hình dạy học trực tuyến (e-learning) giúp giảm chi
phí đào tạo. Theo đó, chi phí khóa học sẽ được giảm đến mức đáng kể. Cơ
sở đào tạo tiết kiệm được chi phí trang bị cơ sở vật chất, chi phí chi
trả cho giảng viên và chuyên gia; người học tiết kiệm học phí, chi phí
sinh hoạt và tài liệu học tập …
Cơ sở đào tọa vận hành tốt hơn: Việc áp
dụng công nghệ vào vận hành giúp quản lý giáo viên và học viên triệt để
hơn, giảm tải các lãng phí, tăng hiệu suất và chất lượng làm việc của
khối văn phòng và đào tạo.
Đánh giá (kiến thức người học và tài liệu
hướng dẫn và đo lường sự tiến bộ): Sử dụng những đánh giá của người học
kết hợp với việc phân tích các dữ liệu, giáo viên có thể áp dụng các
thông tin mà họ có được để tiến hành điều chỉnh các kế hoạch giảng dạy.
Sinh viên có thể trả lời các câu hỏi của giảng viên thông qua các phần
mềm, từ đó giảng viên có thể đánh giá chính xác về kiến thức của từng
sinh viên.
Khó khăn và thách thức
Cơ sở
vật chất, hạ tầng mạng, trang thiết bị (như máy tính, camera, máy in,
máy quyét), đường truyền, dịch vụ Internet … còn thiếu, lạc hậu, chưa
đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số.
- Cơ sở
dữ liệu số hóa chuyên ngành (dữ liệu người học, dữ liệu giáo viên /
giảng viên, học liệu …) đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân
lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để đảm bảo cho
việc số hóa. Việc xây dựng kho học liệu số (như sách điện tử, thư viện
điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học
điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) cần phải có kế hoạch cụ thể và đồng
bộ, tránh việc phát triển tự phát dẫn đến lãng phí, mất thời gian, công
sức và tài chính.
- Thu
thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần
hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả,
sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ
cung cấp thông tin.
- Xây
dựng chương trình học trực tuyến, thời lượng học, kiểm tra đánh giá trực
tuyến, kiểm định chất lượng học trực tuyến, công nhận kết quả học trực
tuyến (khác với học truyền thống); quy định điều kiện tổ chức lớp học,
trường học trên môi trường mạng (kể cả ngắn hạn và dài hạn).
- Một số giải pháp chung thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo
Phổ biến, tuyên truyền, nâng cao
nhận thức và trách nhiệm, thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực
thực hiện chuyển đổi số trong toàn ngành giáo dục, đến từng địa phương,
nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý; xây dựng văn hoá số
trong ngành giáo dục.
- Tiếp
tục đẩy mạnh triển khai Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số trong
toàn ngành. Trong đó chú trọng triển khai hoàn thiện hệ thống CSDL toàn
ngành GDĐT (giáo dục phổ thông và giáo dục đại học) kết nối, liên thông,
chia sẻ dữ liệu từ Trung ương đến địa phương, nhà trường và đồng bộ với
các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành khác góp phần hình thành CSDL mở
quốc gia; thực hiện số hóa triệt để, sử dụng văn bản điện tử, sổ sách
học bạ sổ điểm điện tử thay thế văn bản, tài liệu giấy; hoạt động chỉ
đạo, điều hành, giao dịch, họp, tập huấn được thực hiện chủ yếu trên môi
trường mạng.
- Tăng
cường kết hợp công nghệ như Big data, AI, Blockchain… với cơ sở dữ liệu
số chuyên ngành nhằm xây dựng các hệ thống thu thập thông tin đưa ra các
dự báo, dự đoán và tạo ra các ứng dụng, dịch vụ phù hợp đến từng đối
tượng người học.
- Hoàn
thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị công nghệ thông tin thiết
thực phục vụ dạy - học, tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các vùng miền
có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và
huy động nguồn lực xã hội hóa cùng tham gia thực hiện.
- Thúc
đẩy phát triển học liệu số (phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham
khảo, nghiên cứu khoa học); hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng
chung toàn ngành, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập
suốt đời, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền; tiếp tục đổi mới cách
dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp
dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng số.
- Triển
khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm soát và định hướng thống nhất, tạo
môi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà
trường, gia đình, giáo viên giảng viên, học sinh sinh viên; phát triển
các khóa học trực tuyến mở; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng
chung toàn ngành phục vụ công tác bồi dưỡng giáo viên, hỗ trợ dạy học
cho các vùng khó khăn.
- Đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo kiến thức, kỹ năng CNTT,
an toàn thông tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng
yêu cầu chuyển đổi số.
Với
những nội dung đề cập ở trên phần nào đã cho thấy được tầm quan trọng
của chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo. Từ những khía cạnh được
phân tích, hi vọng sẽ mở ra hướng đi mới trong ngành giáo dục, cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin truyền thông,
sẽ giúp cho ngành giáo dục nước nhà ngày càng phát triển và tiệm cận với
sự phát triển chung của thế giới.